Vua Gia Long vốn không phải là 
con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau 
ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt 
với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn? 
*     *
*
Lời người viết: Mùa Vu lan năm Canh 
dần 2010, tự nhiên tôi nhận được nhiều email của thân hữu gởi đến – có 
ngày nhận hai ba cái — kèm theo truyện ngắn “Một ngày lễ Vu lan sầu 
thảm” của Tịnh Thuỷ, viết về sự tàn ác và hèn hạ của vua Gia Long trong 
việc hành hình vợ chồng Trần Quang Diệu & Bùi Thị Xuân — hai dũng 
tướng của Tây Sơn — và gia đình (mẹ già và con gái). Nội dung của các 
điện thư hoặc có ý hỏi tôi sự thật có đúng như vậy không, hoặc tỏ ra 
đồng ý với tác giả, chê trách vua Gia Long tàn ác. Bài viết này xin xem 
như một câu trả lời, sự thật lịch sử là một kinh nghiệm chung ở đời…
Đôi nét lịch sử
Sau 25 năm chiến đấu kiên trì và gian 
khổ, ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (13/6/1801) Nguyễn Vương (vua Gia 
Long) tái chiếm kinh đô cũ Phú Xuân, đuổi vua tôi Cảnh Thịnh chạy dài ra
 Bắc. Một năm sau, ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1/6/1802), tuy 
chưa chính thức lên ngôi hoàng đế (1) nhưng theo lời đề nghị của bầy 
tôi, vua ban hành niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại mới của nhà 
Nguyễn. Vào đầu thế kỷ XX, vua Khải Định đã chọn ngày này ( mồng 2 tháng
 Năm âm lịch) làm ngày quốc khánh của nước Đại Nam, đặt tên là ngày Hưng
 quốc khánh niệm. Những ai ở lứa tuổi trên 70 ở Trung kỳ, từng cắp sách 
đến trường có thể còn nhớ đôi chút về ngày này, nhất là ở Huế. Đó là 
ngày mừng đất nước thống nhất. Niên hiệu Gia Long bao hàm trong ý nghĩa 
đó — vua muốn nói ông là người đã đi từ Gia Định thành tới Thăng Long 
thành để thống nhất đất nước. (Võ Hương-An, Thăng Long và Gia Long )
Ngay sau khi chiếm lại Phú Xuân và trong
 khi vua Cảnh Thịnh của Tây Sơn đang còn làm chủ ở miền Bắc thì Nguyễn 
Vương đã cho “Phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi 
thây, bêu đầu ở chợ” (Thực lục I, tr.473).
Sau khi chiếm được Bắc hà, bắt được trọn
 gói vua tôi, anh em vua Cảnh Thịnh, hoàn thành cuộc thống nhất đất nước
 từ Nam chí Bắc, vua Gia Long khải hoàn về kinh. Ngày giáp tuất tháng 11
 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) vua đem tù binh ra
 làm lễ hiến phù ở Thái Miếu. Hiến phù là lễ trình diện tù binh trước 
bàn thờ tổ tiên, và Thái Miếu là nơi thờ 9 đời chúa Nguyễn. Sau lễ,
“Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế 
dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang 
Toản [vua Cảnh Thịnh] và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra 
ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác, đem hài cốt của 
Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu 
của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở 
Nhà đồ Ngoại [Ngoại Đồ Gia, cơ quan chế tạo của triều đình, sau gọi là 
Võ Khố] (năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn
 đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu 
đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài.” (Thực lục I, tr.531)
Trong chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ 
về lễ hiến phù ngày 7 háng 11 Nhâm tuất, có câu mở đầu : “Trẫm nghe, vì 
chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu …” và kết thúc bằng câu 
“Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho
 Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân.” (Thực lục I, tr.532,533)
Theo tài liệu của Bissachère, trước khi 
nhận lãnh cái chết thảm khốc, anh em vua Cảnh Thịnh còn bị bắt phải 
chứng kiến cảnh lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của cha 
(Nguyễn Huệ) và bác (Nguyện Nhạc) (theo hồi ký của Bissachère) trước khi
 hài cốt bị đem “giả nát rồi vất đi”.
Xem thêm: 
 | 
Phẩm bình của lịch sử 
Tại miền Nam trước 1975, có hai bộ thông
 sử tiếng Việt thông dụng là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và Việt
 Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn. Viết về vua Gia Long, cả hai bộ sử đều 
giống nhau ở một điểm: có phê phán sự hẹp lượng của vua Gia Long qua 
việc giết hại công thần (vụ án Nguyễn Văn Thành và vụ án Đặng Trần 
Thường), có kể rõ việc hành hình trả thù Tây Sơn nhưng hoàn toàn không 
bình luận, phê phán gì đến sự “quá tay” trong việc này. Tại sao?
Hoa Bằng, tác giả Quang Trung, Anh hùng 
dân tộc (Nxb Bốn Phương, Saigon, 1953) khi kết luận thiên biên khảo đầu 
tiên bằng tiếng Việt về đề tài này đã ngậm ngùi viết:
“Vậy mà Nã [Phá Luân, Napoléon I] được 
gởi nắm xương trong đền Invalides để cho người sau hoài niệm, viếng thăm
 ; còn Quang Trung : mả phải đào, xương phải tán, dòng dõi bị chu di, sự
 nghiệp liệt liệt oanh oanh gói tròn trong một chữ ‘Ngụy’”
Nhà viết sử Trần Gia Phụng trong Nhà Tây Sơn (Nxb Non Nước, Toronto, 2005) cũng đã có lời bình phẩm nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc:
“Cuộc trả thù được vua Gia Long xem là ‘
 nghĩa lớn Kinh Xuân Thu’ nhưng hành hạ di cốt địch thủ trước mắt con 
cái họ trái hẳn với đạo lý cổ truyền của dân tộc.” (tr.240)
Phê bình mạnh tay, mạnh mẽ hơn có Quách Giao :
Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng 
khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, 
tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền
 đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã 
theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ.
Còn đối với Nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc 
Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng [Cảnh Thịnh], cho tới một em bé
 mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua
 Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục 
thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh 
sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những
 Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã.
Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, 
Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ 
Ðiểu, Vùng An Khê. Vua tôi Nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không 
dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình thế đã yên, 
ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật 
báo. Quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết.
…Ngót 150 năm, Nhà Nguyễn cố làm cho 
người người quên Nhà Tây Sơn. Những người yêu nước vẫn luôn nhớ đến Nhà 
Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm tòi trong nơi 
khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về Nhà Tây Sơn.
Và tiếng Anh hùng Áo Vải, Anh Hùng Dân Tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc.
Còn Nhà Nguyễn đã làm được gì?
Có người bảo rằng đã thống nhất Bắc Nam.
Xem thêm: 
 | 
Ðó là quên rằng chính Nhà Tây Sơn đã 
thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm trên tay Ðông Ðịnh 
Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao phen bể nổi dâu chìm Nhà Nguyễn còn để lại 
tiếng Rước voi, cõng rắn.
Trăm năm bia đá thời mòn
Nghìn năm bia miệng mãi còn trơ trơ.
Trong văn hóa phương Tây, đánh nhau là 
đánh nhau nhưng không có chuyện trả thù kẻ chiến bại một cách tàn nhẫn, 
nhất là đối với người đã chết, Do đó, khi bắt gặp hành động “dã man” này
 của vua Gia Long, Stanley Karnow, tác giả tiếng tăm bộ sử VietNam, A 
History (Penguin Book, 1984) đã viết:
“Ông ta tỏ ra chẳng khoan dung chút nào 
đối với kẻ thù đã chiến bại, dù đã chết hay còn sống. Binh sĩ của ông đã
 quật xương cốt của một cặp vợ chồng cầm đầu Tây Sơn đã chết [Nguyễn 
Huệ], tiểu tiện vào xương cốt đó trước sự chứng kiến của con cái họ và 
những người này sau đó tay chân bị trói vào 4 con voi và xé nát.” (p.65)
 (He showed no mercy to his beaten adversaries, dead or alive. His 
soldiers exhumed the bones of a deceased Tayson leader and his wife and 
urinated on them before the eyes of their son, whose limbs were then 
bound to four elephants and ripped apart.)
Nếu Nhà Tây Sơn không có Quang Trung 
Nguyễn Huệ với chiến thắng quân Thanh và quân Xiêm vang dội trong lịch 
sử thì hành động “vì 9 đời mà trả thù” của vua Gia Long chưa chắc đã bị 
búa rìu dư luận nhiều như đã xảy ra. Ngoài việc ghi chép khá rõ ràng của
 Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn thì hồi ký sống động của giáo sĩ De la 
Bissachère về việc hành hình trả thù của vua Gia Long đối với anh em và 
vua tôi Cảnh Thịnh (2), đã gây tác động tâm lý không nhỏ trong giới sử 
học Đông Tây (Thực ra ông này không chứng kiến cuộc hành hình mà chỉ 
nghe ai đó kể lại). Thử đi vào mạng lưới toàn cầu, gõ mấy từ khóa như 
Gia Long, Tây Sơn, Nguyễn Huệ, thì tha hổ đọc công luận phẩm bình, đa số
 đều chê Gia Long về việc này. Điều này cũng dễ hiễu thôi vì hào quang 
chiến thắng quân Xiêm và quân Thanh của vua Quang Trung rực rỡ quá, đã 
che mất sự thật thê thảm ở bên trong. Thêm vào đó, với mấy chục năm lịch
 sử triều Nguyễn do Gia Long khai sáng, đã bị miệt thị thậm tệ, đã ảnh 
hưởng không ít trên sự nhận thức của người đọc, nhất là giới trẻ. Mặc 
dầu ngày nay gió đã đổi chiều, đã bắt đầu có sự chuyển biến trong nhận 
thức về sự nghiệp của Nhà Nguyễn (3) nhưng không thiếu chi người vẫn tư 
duy trong nếp cũ.
Câu hỏi đặt ra
Các sách sử Việt Nam viết về hành vi 
“tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia Long đều lấy tài liệu từ các bộ 
chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt 
Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết khác do nguồn sử liệu Tây 
phương cung cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đã không giấu 
diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người sau 
chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà không có bớt.
Riêng người viết, trong niềm ngưỡng mộ 
chiến thắng oanh liệt hào hùng của vua Quang Trung trước quân Xiêm và 
quân Thanh xâm lăng, ban đầu thì cũng đồng ý với những bình phẩm chê 
trách hành động của vua Gia Long đối với Tây Sơn là thái quá, tàn nhẫn, 
nhưng sau đó, khi được biết những nguồn tin khác, không khỏi đắn đo tự 
hỏi và tìm lời giải đáp.
Vua Gia Long vốn không phải là con người
 hiếu sát (4)[1] .Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng 
rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với 
con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Sau khi làm chủ Bắc hà, vua “Sai chọn 
người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc thờ cúng họ Trịnh. Trước là khi đại 
giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm 
tình, xuống chiếu dụ rằng: ‘Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông 
gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua 
của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ 
lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã 
mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy
 một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời.” 
(Thực lục I, tr.508) Vậy là Trịnh Tư 
được giao lo việc thờ cúng, họ Trịnh được cấp 500 mẫu ruộng để lấy huê 
lợi cúng tế hàng năm, 247 người họ Trịnh được xét tha thuế dinh và miễn 
binh dao (đi lính và chịu sưu dịch).
Ai cũng biết La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp,
 được coi như một Gia Cát Lượng của vua Quang Trung, một cố vấn tối cao,
 được vua quan trên dưới đều kính nể (4 lần vua khẩn khoản mời ra giúp, 
cuối cùng nhận chức Viện trưởng Viện Sùng Chính năm 1790, giúp vua chấn 
chỉnh việc giáo dục, văn hóa, giúp vua chọn đất Nghệ An làm Phượng Hoàng
 trung đô…). Khi Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân, ông đang ở Huế giúp 
vua Cảnh Thịnh nhưng không chạy theo khi vua đào thoát (hay chạy theo 
không kịp?) và dường như không bị bị bắt mà chỉ quản thúc tại gia, dù 
phía Nguyễn Vương biết rõ lý lịch, sau đó Nguyễn Vương đã ra lệnh
“Thả xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về.
 Thiếp là người xã Nguyệt Áo huyện La Sơn, đậu Hương tiến đời Lê, làm 
quan huyện Thanh Chương, bỏ quan về nhà. Khi nhà Lê mất, theo lời mời 
của Nguyễn Quang Toản mà ở lại Phú Xuân. Tới nay vào yết kiến, xin trở 
về làng. Vua [Nguyễn Vương] dụ rằng ‘Khanh là người tuổi tác, đạo đức, 
rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy
 nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực
 mến lão kính hiền của ta.’ [người viết in đậm]. Bèn sai quan quân đưa 
về (Thực lục I, tr.445)
Lại năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh 
Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy 
Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành bắt giải về Kinh, vua Gia Long 
tha hết cho về quê. Lại khi Bộ Hình tâu xin vua định đoạt số phận của 
người vợ lẻ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên Đại và Vạn bị bắt thì vua
 nói: “Vợ lẻ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của
 giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích
 gì?” (Thực lục I, tr.544)
Những chứng dẫn nho nhỏ đó cho thấy vua 
Gia Long là con người phải chăng, tùy theo người, theo trường hợp mà có 
quyết định tha hay phạt , chứ không phải bạ đâu giết đó, thà giết lầm 
hơn bỏ sót. Vậy tại sao giết Tây Sơn chưa đủ, phải hành hạ mới hả, kể cả
 nắm xương khô. Thù chi mà dữ vậy?
Sự thật là đây
Về chuyện vua Gia Long trả thù Tây Sơn, 
nhà viết sử Trần Gia Phụng đã đi xa hơn các học giả đi trước khi lần đầu
 tiên ông phân tích chính xác rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây 
Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì 
ba việc chính: thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột
 vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và 
Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Thứ 
nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc 
Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho 
quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ 
xuống sông năm 1790.” (Việt Sử Đại Cương, Tập 2, tr.445)
Chừng đó nợ máu nghe đã nặng (5 người 
cật ruột), nhất là món nợ thứ 3, nhẹ vật chất mà nặng tâm linh và đạo 
đức, ít người biết. Nhưng kể vậy cũng chưa đủ.
Khi đọc câu mở đầu của chiếu bố cáo lễ 
hiến phù: “ Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân 
Thu…” * (Thực lục I, tr.532) tôi không 
khỏi mỉm cười một mình với ý nghĩ : thiệt mấy ông đời xưa văn chương lớn
 lối quá, cái chi cũng lôi điển tích với sách vở ra, tô vẻ cho long 
trọng. Nhưng sau đó, khi đọc kỹ Thực lục mới biết mấy chữ vì 9 đời mà 
trả thù mang một ý nghĩa rất thực, rất cụ thể, bên cạnh màu sắc điển 
tích văn chương tô điểm.
* “Xuân Thu, Công Dương truyện: Trang 
công năm thứ 4 chép: Tề Tướng công giết nước Kỷ, vì ông tổ xa đời là Ai 
công mà phục thù, đời gọi là mối thù 9 đời.” Chú thích của dịch giả Thực
 lục I, tr.532.
Ngày 13/6/1801, Nguyễn Vương (vua Gia 
Long) tái chiếm kinh đô Phú Xuân, nơi ông đã vội vã ra đi khi mới 13 
tuổi (ta), và ròng rã 27 năm mơ ước được trở về. Tuy đã làm chủ được Phú
 Xuân nhưng lực lượng hùng hậu của Tây Sơn Cảnh Thịnh vẫn còn ở bên kia 
lũy Trường Dục (Quảng Bình), vậy mà đến đầu tháng 8 năm đó đã lo sửa 
sang lăng mộ tổ tiên và cấp tốc hoàn tất ngay trong tháng. Sao việc này 
lại làm gấp rút còn hơn cả công tác sửa sang thành trì, xây đồn đắp luỹ 
để phòng chống Tây Sơn? Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của Thực lục sau đây, 
có thể thấy được lý do thúc đẩy (những chữ in đậm là do người viết, chữ 
ghi giữa hai ngoặc đứng [x] là chú giải của người viết):
“Tháng 9, ngày Ất hợi [ 9/8/1801], sửa lại sơn lăng.
“Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ 
tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường
 Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ
 táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm 
thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ 
đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa 
Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy. Huệ bực tức, sai đồ đảng 
đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa 
[lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai
 Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở
 xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư
 Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn
 xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem 
việc tâu lên. Vua thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã 
bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an 
táng lại. Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Ngày Kỷ hợi 
[1/11/1801], vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều khóc cả.
 Sai đổi xã Cư Hóa làm xã Cư Chính, cho dân miễn dao dịch làm hộ lăng. 
Cho Huyên làm Cai đội (năm Minh Mệnh thứ 11[1830] phong An Ninh bá, lập 
đền thờ ở núi Cư Chính) con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài tòng quân ở Bình Định 
cũng được gọi về hậu thưởng cho.” (Thực lục I, tr.466)
Gạt ra ngoài những chi tiết hoa lá cành 
như hai con cọp trong bụi rậm nhảy ra, đang đào mả thì nhà cháy, v.v., 
đoạn sử ngắn ngủi do Thực lục ghi lại tiết lộ hai điều quan trọng mà ít 
người biết đến hoặc biết mà vì một lý do nào đó đã lơ đi hoặc chỉ phớt 
nhẹ nói qua:
-Thứ nhất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy hài cốt ném xuống sông.
Việc này cộng với việc giết chết vị chúa
 thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên năm 1777 thì quả 
nhiên vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chậy chút nào. Vì vậy có thể 
nói được rằng chữ 9 đời có một ý nghĩa rất cụ thể.
Đây là 8 đời chúa Nguyễn:
1.Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613);
2.Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635);
3.Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
4.Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
5.Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691);
6.Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725);
7.Chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738);
8.Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765);
Về ông tổ Nguyễn Kim, có lẽ vì không 
biết đích xác mộ phần nẳm ở đâu trong cái bát ngát của núi Triệu Tường ở
 Thanh Hóa, nên vua Quang Trung đành phải cho qua mà không tình sổ.
Tám đời chúa Nguyễn này không có hận thù
 gì với anh em Tây Sơn, đã có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước 
khi kế tục nhau mở nước về phương Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, cống 
hiến cho tổ quốc non một nửa nước, trài dài từ Phú Yên trở vào Nam, với 
đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn lãnh thổ nam tiến của các 
triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cọng lại. Không có sự nghiệp này thì hậu 
thế ngày nay lấy chi để khoe với thế giới rằng “nước ta hình cong như 
chữ S” với “rừng vàng biển bạc”?!
-Thứ hai: Phần mộ của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long cũng bị quật lên và hài cốt ném xuống sông.
Ông Nguyễn Phúc Côn là con thứ hai của 
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm 1765, khi con là Nguyễn Phúc Ánh 
đang còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế (1806) mới truy tôn cha 
làm Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ cho đến khi chết dưới tay quyền 
thần Trương Phúc Loan, ông chẳng làm vua làm chúa gì. Chỉ vì con ông là 
Nguyễn Phúc Ánh dám chống lại Tây Sơn mà ông đã không được ngủ yên, lâm 
vào cảnh con làm cha chịu!
Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết thêm một chi tiết khác:
“Theo truyền thuyết, khi Tây Sơn khai 
quật hài cốt đức Hưng Tổ ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ
 lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ
 của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long 
lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, 
ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích 
huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối 
thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người). (tr.193)
Thực lục có nói khi Nguyễn Ngọc Huyên 
chết thì được lập đền thờ và phong làm An Ninh bá. Ở thượng lưu sông 
Hương có một ngôi miếu, tục gọi là miếu Ông Chài, chính là miếu ông 
Huyên vậy.
Trong văn hóa Việt Nam, phận làm con 
cháu là phải lo gìn giữ mồ mả tiên tổ cha ông. Do đó chúng ta thông cảm 
với vua Gia Long chỉ trong 2 tháng sau khi tái chiếm Phú Xuân đã vội vã 
hoàn tất việc tu sửa lăng mộ bởi khi đã biết tình trạng lăng mộ bị phá 
tanh banh thê thảm như thế thì không một ai có thể chờ đợi được nữa.
Trong lịch sử Việt Nam, việc tranh giành
 quyền lực dẫn đến những hành động giết hại nhau tàn nhẫn không phải là 
hiếm. Điển hình, để cướp ngôi nhà Lý, Trần Thủ Độ không ngần ngại dồn Lý
 Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ nhổ cỏ tận gốc, mặc dù Huệ Tông đã biết
 thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở chùa Chân Giáo. Đã thế, Trần Thủ Độ 
còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý chôn sống trọn gói (may mà Hoàng tử 
Lý Long Tường nhanh chân thoát qua tị nạn ở Cao Ly, trở thành thuỷ tổ họ
 Lý của xứ Đại Hàn ngày nay). Nhưng có lẽ trong cuộc tranh chấp quyền 
lực chưa có ai trong lịch sử phải trả cái giá 5 mạng người ruột thịt và 9
 ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh với xương cốt không biết đâu tìm như 
trường hợp vua Gia Long trong khi đối đầu với Tây Sơn để phục hồi cơ 
nghiệp của ông cha đã tốn công xây dựng.
Ở đời, có vay thì có trả. Nợ nào cũng có
 tính lãi suất, chỉ có khác là nặng hay nhẹ, không hình thức này cũng 
hình thức khác. Nếu Quang Trung Nguyễn Huệ không tạo nhân ác thì có thể 
đã không gặp quả ác. Hận thù luôn luôn vẫy gọi thù hận là chuyện thường 
của thế gian, huống chi lại có yếu tố tranh giành quyền lực trong đó, 
tham lam và sân hận hẳn phải bốc lên ngùn ngụt.
Phải chăng nên thử tự đặt mình vào địa vị của vua Gia Long để có nhiều thông cảm và có lời phẩm bình phải chăng hơn.
Một vài cảm nghĩ 
Là hậu thế, có lẽ không mấy ai vui khi 
biết sự thật của tấn thảm kịch Nguyễn Quang Trung và Nguyễn Gia Long. Cả
 hai, đối với chúng ta, đều có chỗ đáng tôn vinh lẫn chỗ bất cập. Riêng 
ngưởi viết, từ tấn thảm kịch lịch sử này, học hỏi được một đôi điều, xin
 gọi là chia sẻ.
1/Qua việc điện thư của bạn bè và thân 
hữu gởi đến tới tấp kèm chuyện “Một ngày lễ Vu lan sầu thảm” của Tịnh 
Thuỷ,tôi nhận ra rằng té ra loại “lịch sử tiểu thuyết” dễ đi vào lòng 
người hơn là chính sử khô khan. Đồng ý khi tiểu thuyết hóa lịch sử thì 
tha hồ cho trí tưởng tượng vẽ vời nhưng cái căn bản của nó xin đừng đổi 
trắng thay đen. Thực lục ghi rõ vụ hành hình vua tôi anh em Cảnh Thịnh 
diễn ra ngày giáp tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 tức ngày 7 tháng 11 
Nhâm Tuất, 1/12/1802. Làm chi có ngày Vu Lan trong đó? Có lẽ tác giả 
muốn gây ấn tượng cho ngưởi đọc về sự tàn ác khó dung tha của vua Gia 
Long nên mới lựa một ngày như thế. Tội nghiệp cho vua! Vua chỉ dự lễ 
hiến phù, không dự cuộc hành hình, chỉ sai quan thi hành, nên cuộc đối 
thoại tay đôi giữa vua và bà Bùi Thị Xuân cũng chỉ là cơ hội bày ra để 
mạt sát thoải mái. Tội nghiệp.
2/Việc cải táng mộ ông Nguyễn Phúc Côn 
có thể hiểu được, vì tìm được hài cốt và hài cốt này đã được vua Gia 
Long xác tín rằng đó là di cốt của người đã sinh thành ra ông. Nhưng với
 8 chúa thì sao? Sử nói Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Đồng ý 
là xây lên cao, làm cho to lớn đẹp đẽ hơn xưa, nhưng hài cốt không tìm 
thấy thì chôn cái gì trong đó? Chẳng lẽ chỉ là một ngôi mộ trống không? 
Một cái mả gió?
Trong một dịp về thăm Huế sau 7 năm “đi 
học làm người tốt” (!), tôi được biết sau năm 1975, do đói quá, người ta
 đã làm bậy. Việc đào trộm mồ mả lăng tẩm giới quyền quí đã xảy ra với ý
 đồ tìm vàng bạc châu báu tùy táng. Người bạn kể cho nghe (tôi chưa có 
cơ hội kiểm chứng) khi cụ Vương Hồng Sển, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng 
của Miền Nam, biết được kẻ gian đã kiếm được nữ trang trong lăng Hoàng 
Thái Hậu Từ Dũ (vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức) và đem bán thì cụ đã 
kêu trời. Dưới cái nhìn cơm áo của kẻ trộm, đó là vàng, tính theo thời 
giá của chỉ và lượng. Dưới cái nhìn của cụ Vương, đó là đổ cổ vô giá của
 quốc gia! Nhưng đó không phải là chi tiết tôi quan tâm, vì bảo vật quốc
 gia người ta bán ra nước ngoài nhiều rồi. Chi tiết lý thú mà tôi nghe 
được đã giúp tôi hiểu biết thêm và lý giải thắc mắc nêu trên. Chi tiết 
đó là, bọn kẻ trộm, khi đào đến quan tài của một ông chúa nào đó đã 
không thấy hài cốt mà chỉ thấy hình người ta bằng gỗ! Điều này xác nhận 
giả thiết mà tôi đã nghĩ trong đầu nhưng không biết cách nào để kiểm 
chứng, ấy là tục chiêu hồn nạp táng.
“Chiêu hồn nạp táng là gì?
“Trong gia phả các họ rất chú trọng mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục này có một số trường hợp ghi chú: “Chiêu hồn nạp táng”.
Đó là những ngôi mộ không có tử thi, hài
 cốt, mộ người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ… không tìm được tử 
thi. Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an táng theo như lễ an táng thông
 thường.
Được nghe các cụ kể lại rằng: chất liệu 
làm hình nhân, có địa phương dùng cây núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, 
mộc hồ điệp, nam hoàng bá, bạch ngọc nhi). Núc nác là loại gỗ mềm và 
xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu hoai, lại dễ kiếm vì mọc ở nhiều 
nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa dòng sông, có địa phương dùng mùn
 đào ở giữa ngã tư đường cái.
Hình nhân được đẽo gọt hoặc nhào nặn thô
 sơ, có đầu mình chân tay là được (vì đa số không phải là nghệ nhân). 
Kích thước của hình nhân khoảng 30-40 cm chiều dài. Thi hài tượng trưng 
đó cũng được khâm liệm, đưa vào áo quan làm bằng gỗ vàng tâm, kích thước
 nhỏ bé, hoặc đưa vào tiểu sành. Trên hình nhân có phủ lên linh vị viết 
trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bàn thờ. Trước khi
 làm lễ an táng có mời thầy cúng làm bùa ấn phù phép để vong hồn nhập 
vào hình nhân.
Lễ an táng và các lễ các lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thông thường.
3/ Hình như có một nhà tư tưởng nào đó 
đã nói: “Làm thầy thuốc lầm thì chết một người; làm thầy địa lý lầm thì 
giết một họ; làm chính trị lầm thì giết một nước, làm làm văn hóa lầm 
giết cả một đời.”
Dưới ảnh hưởng của môn phong thủy Trung 
Hoa, người Việt từ vua cho chí dân đều tin rằng âm phần tổ tiên có ảnh 
hưởng trực tiếp đến sinh mệnh và tương lai của con cháu. Bởi vậy ai cũng
 mong muốn tìm cho được một huyệt mả tốt để được kết phát, để con cháu 
được hưởng phước vinh hoa phú quí dài lâu. Bởi vậy, để tận diệt kẻ thù 
không gì bằng triệt long mạch, phá huyệt mộ, đào mả cha ông nhà người ta
 lên. Làm thế thì chắc chắn con cháu không thể nào ngóc đầu lên được, 
lấy gì mà chống trả. Quang Trung Nguyễn Huệ, ngoài việc sử dụng binh lực
 đánh Nguyễn Vương chạy dài ra biển, trốn qua đến Xiêm La hai lần, vẫn 
không quên sữ dụng chiêu thức này để hỗ trợ. Và để cho chắc ăn, thà phá 
lầm hơn bỏ sót, đã không những quật mồ thân sinh vua Gia Long là huyết 
thống trực hệ mà còn quật mồ cả 8 đời chúa Nguyễn xa lắc. Thật là một sự
 tính toán chu đáo.
Tuy toan tính chu đáo như vậy nhưng Nhà 
Tây Sơn Nguyễn Huệ chỉ tồn tại có 14 năm (1788-1802, 1788 là năm vua 
Quang Trung đăng quang trước khi ra Bắc phá quân Thanh), trong khi 
Nguyễn Vương, mặc dầu bị đánh trúng tử huyệt (theo quan niệm phong thủy)
 nhưng sau 25 năm bền bĩ chiến đấu nhọc nhằn, đã thống nhất đất nước, 
phục hưng được cơ nghiệp tổ tiên, lập ra triều đại mới, tồn tại 143 năm 
(1802-1945).
Vậy là thế nào? Chẳng lẽ phong thủy hoàn
 tòan là một thứ tin mê tín dị đoan? Không, không thể vì vậy mà kết luận
 phong thủy một cách hồ đổ như thế được. Cái nước Mỹ của khoa học kỹ 
thuật tiến bộ nhất thế giới này cũng đang chạy theo Feng Shui (Phong 
thủy) của nền văn minh cổ Trung Hoa, có thua chi Việt Nam xưa và nay 
đâu, có điều họ chú trọng đến dương cơ hơn âm phần. Như vậy phải có một 
yếu tố gì khác làm cho độc chiêu do vua Quang Trung phát ra đã không có 
hiệu quả. Tôi chợt nhớ đến chữ Đức trong câu ca dao
Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau
Trong 8 đời chúa Nguyễn, không thấy ông 
nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng lo làm cho dân giàu nước mạnh. 
Lịch sử cuộc nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu Đốc chứng minh điều 
đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ sự nghiệp nam tiến 
đó!
Có 3 ông chúa mang danh hiệu khác người:
 Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu 
cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn thì làm chi có những 
cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như thế?
Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương 
hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn
 Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo
 nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương 
Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt.
Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên lập 
chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền lập chùa Túy 
Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa Minh).
Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà Đức 
năng thắng số, Số bất cập đức nên tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà 
ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người 
hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ chính xác và minh triết 
hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo. Theo thiển ý, có lẽ hiểu theo 
cách này mới giải thích được chỗ bất cập của phong thuỷ.
------------------------------------
Chú thích:
(1) Mãi đến mùa hạ năm 1806 (Bính dần) vua mới chánh thức làm lễ lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hoà.
(2) Có thể xem: La Relation sur le 
Tonkin et la Cochinchine, hồi ký của Bissachère viết năm 1807 do Charles
 B. Maybon biên tập và xuất bản năm 1920, từ trang 118 đến trang 120 
trong 
(3) Ngày 18 và 19/10/2008 tại Thanh Hóa 
có một cuộc hội thảo “Đánh giá lại chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn” 
được phóng viên ghi nhận là “một hội thảo lịch sử”, có lẽ vì phải chuẩn 
bị tài liệu đến 20 năm và tỉnh Thanh Hóa đã tài trợ gần một tỉ đồng VN 
để tổ chức, Có hai nhận xét quan trọng được ghi nhận :
“Theo GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng 
Viện Sử học, cần có nhận thức mới về nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc 
trên tinh thần “công minh lịch sử”.
“Tổng kết hội thảo, GS Phan Huy Lê, Chủ 
tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam khẳng định: Cuộc hội thảo lần này đã 
nhận được sự hưởng ứng rộng rãi không chỉ của giới khoa học mà còn của 
dư luận xã hội, chứng tỏ những nhận thức trước đây về vai trò của chúa 
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc theo hướng phê phán 
và phủ định đã không còn thỏa đáng nữa” 
S.T

No comments:
Post a Comment